I. Khái quát về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tiếp cận theo lý thuyết phát triển bền vững trong bối cảnh thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tiếp cận theo lý thuyết phát triển bền vững
Trước khi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được chính thức luận bàn vào những năm 1950 trở lại đây với tác phẩm “Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” của tác giả Howard Rothmann Bowen, thì sự quan tâm đến những hậu quả nảy sinh bởi các hoạt động của doanh nghiệp nói riêng và các hoạt động kinh tế nói chung đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Những ghi chép của người Trung Hoa, Ai Cập cổ đại đã phác họa những quy tắc giao thương mà bảo đảm rằng lợi ích của cộng đồng được quan tâm. Dưới chủ nghĩa tư bản luôn tồn tại các hoạt động xã hội phản kháng những hành động của tổ chức vì lợi nhuận, bóc lột thuần túy. Quan điểm về trách nhiệm xã hội đã trải qua các giai đoạn phát triển cùng với những chuyển biến liên tục bởi nhận thức và kỳ vọng về trách nhiệm xã hội luôn thay đổi. Cho đến nay, tổng hợp lại có 3 lý thuyết điển hình về trách nhiệm xã hội được đề cập, đó là: lý thuyết các bên liên quan; lý thuyết cấp độ trách nhiệm và lý thuyết phát triển bền vững.
Theo lý thuyết phát triển bền vững, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cần hướng tới 3 yếu tố bền vững, thể hiện qua 3P với: P1 là “lợi nhuận” (Profit) - thước đo truyền thống về trách nhiệm kinh tế; P2 là “con người” (People) - thước đo trách nhiệm về quyền con người; P3 là “hành tinh” (Planet) - thước đo trách nhiệm về môi trường. Do đó, hiệu suất của doanh nghiệp trong mỗi yếu tố thể hiện cam kết tương ứng của họ đối với các bên liên quan, môi trường tự nhiên và lợi ích kinh tế. Cách tiếp cận này nhất quán với khái niệm phát triển bền vững sinh thái được đưa ra trong Tuyên bố Rio (năm 1992) về môi trường và phát triển trên toàn cầu. Sự phát triển bền vững của một quốc gia phải có sự đóng góp của các doanh nghiệp thông qua các chương trình trách nhiệm xã hội.
2. Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và cam kết trách nhiệm xã hội
2.1 Nội dung cam kết về trách nhiệm xã hội
Trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, trách nhiệm kinh tế là mục đích cuối cùng trên cơ sở thúc đẩy thương mại bền vững được thể hiện qua các nội dung cam kết “phi thương mại” tồn tại song song cùng các cam kết “thương mại”. Trong các cam kết phi thương mại đó, bảo đảm trách nhiệm về quyền lao động, về môi trường là những điều khoản cốt yếu. Chẳng hạn, ngay trong Lời nói đầu và lời khẳng định mục đích cuối cùng của Hiệp định Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính là “đem lại tăng trưởng kinh tế và lợi ích xã hội, tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp, góp phần nâng cao mức sống, lợi ích người tiêu dùng, giảm nghèo và thúc đẩy tăng trưởng bền vững”. Hay Chương 13 của Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) nhấn mạnh những lợi ích của hợp tác về các vấn đề lao động và môi trường liên quan tới thương mại là một phần của chiến lược toàn cầu về thương mại và phát triển bền vững - đã thể hiện trách nhiệm xã hội một cách toàn diện.
Xem xét cụ thể nội dung trách nhiệm về quyền lao động, FTA thế hệ mới quyết tâm bảo vệ quyền lao động theo hướng khẳng định cam kết phù hợp với các nghĩa vụ theo Hướng dẫn của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế cho các doanh nghiệp đa quốc gia, Hiệp ước toàn cầu của Liên hợp quốc và Tuyên bố năm 1998 ba bên về các Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc và những hành động tiếp theo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) với các nội dung chủ yếu sẽ tôn trọng, thúc đẩy và thực hiện hiệu quả các nguyên tắc về các quyền cơ bản tại nơi làm việc, bao gồm: Tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền thương lượng tập thể; chấm dứt mọi hình thức lao động cưỡng bức hoặc ép buộc; loại bỏ một cách hiệu quả lao động trẻ em; chấm dứt phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp và những điều kiện làm việc có thể chấp nhận được về lương tối thiểu, giờ làm việc và an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Ví dụ, những nội dung này được cụ thể trong Chương 19 - Lao động của CPTPP; hay Chương 13 (Điều 13.4) của EVFTA.
Bên cạnh đó, nội dung trách nhiệm về môi trường được FTA thế hệ mới khái quát là: Tăng cường bảo vệ môi trường ở mức độ cao, thúc đẩy thực thi có hiệu quả pháp luật về môi trường, thúc đẩy sự tương hỗ lẫn nhau giữa các chính sách về thương mại và môi trường; tăng cường năng lực của các bên để giải quyết các vấn đề môi trường liên quan đến thương mại, bao gồm cả việc thông qua hợp tác. Chi tiết nội dung của mỗi FTA thế hệ mới đề cập là những phương diện có sự giao thoa nhưng không hoàn toàn giống nhau. Chương 20 CPTPP chia sẻ những mối quan tâm cụ thể về: cam kết bảo vệ tầng ô-zôn; bảo vệ môi trường biển từ ô nhiễm của tàu biển; bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học; ngăn ngừa, phát hiện, kiểm soát, nếu có thể loại trừ sinh vật ngoại lai xâm lấn; chuyển đổi sang nền kinh tế ít phát thải và có sức chống chịu; đánh bắt hải sản bền vững; chống khai thác và thương mại trái phép động vật hoang dã. Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam - Liên minh châu Âu lại tập trung khẳng định cam kết nhằm đạt được mục đích cuối cùng về: biến đổi khí hậu; bảo đảm bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học; quản lý tài nguyên rừng bền vững và thương mại lâm sản; thương mại và quản lý bền vững nguồn tài nguyên sinh vật biển và sản phẩm nuôi trồng thủy sản.
2.2. Trách nhiệm của nhà nước và doanh nghiệp trong thực hiện trách nhiệm xã hội theo cam kết FTA
Các cam kết và nghĩa vụ về trách nhiệm xã hội trong kinh doanh được thiết lập tại FTA thế hệ mới đòi hỏi trách nhiệm của nhà nước, doanh nghiệp trong việc thực thi nghiêm túc, hiệu quả. Thiếu bất cứ chủ thể nào thì việc bảo đảm trách nhiệm xã hội cũng là “giấc mơ”.
Trách nhiệm của nhà nước - thành viên FTA là bảo đảm đầy đủ, nỗ lực cải thiện luật pháp, chính sách khuyến khích các mức độ trách nhiệm xã hội; thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật cụ thể thể hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội; tăng cường nhận thức của cộng đồng, doanh nghiệp về chính sách và pháp luật; giải quyết các mối đe dọa cấp bách; nỗ lực khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong lãnh thổ tự nguyện áp dụng/đưa vào các chính sách hoạt động của mình các nguyên tắc về trách nhiệm xã hội phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế đã được công nhận và các hướng dẫn đã được chấp nhận và ủng hộ. Tính đến tháng 8-2023, có 32 quốc gia đã xây dựng kế hoạch hành động quốc gia của mình, trong đó nhiều quốc gia đã đưa ra các hoạt động nhằm bảo đảm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong thương mại, đầu tư. Không những thế, cơ chế phát triển bền vững cũng được thể hiện thông qua yêu cầu thành lập các cơ quan, cơ chế giám sát theo FTA liên quan đến quyền lao động, môi trường, phát triển bền vững.
Trách nhiệm của doanh nghiệp là tuân thủ và thực hiện pháp luật của quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế. Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam - Liên minh châu Âu yêu cầu các bên cam kết bảo đảm “thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, với điều kiện các biện pháp liên quan không được gây ra sự phân biệt đối xử tùy tiện và vô lý giữa các bên hoặc tạo thành một phương thức hạn chế thương mại trá hình”. Hiệp định này cũng yêu cầu các thành viên cần có “các biện pháp thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, bao gồm các trao đổi về thông tin và thực hành tốt, các hoạt động giáo dục và đào tạo và tư vấn kỹ thuật”. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương có quy định cụ thể về trách nhiệm xã hội tại Điều 19.7 là “Mỗi bên sẽ nỗ lực khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện thông qua các sáng kiến trách nhiệm xã hội về các vấn đề lao động đã được Bên đó xác nhận hoặc hỗ trợ”. Điều 19.10 của CPTPP tiếp tục kêu gọi các quốc gia thành viên cần “hợp tác để thúc đẩy doanh nghiệp bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; hợp tác về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”.
II. Tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội tiếp cận theo lý thuyết phát triển bền vững tại các FTA thế hệ mới ở Việt Nam
1. Nhà nước Việt Nam - những nỗ lực thực hiện cam kết FTA thế hệ mới về phát triển bền vững
Tính đến tháng 7-2024, Việt Nam đã đàm phán, ký kết và thực thi 17 FTA, trong đó các quy định về kinh doanh có trách nhiệm xã hội được đề cập trong các văn kiện chính là CPTPP, EVFTA và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA). Các FTA mang lại nhiều cơ hội trong xuất, nhập khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, với các tiêu chuẩn cao, các FTA cũng đặt ra thách thức không ít, đặc biệt tác động trực tiếp tới nhiều chế định pháp luật của Việt Nam.
Trong thời gian từ năm 2019 đến nay, nước ta đã sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các quy định pháp luật quốc gia nhằm thực thi các cam kết trong FTA với mục tiêu là bảo đảm sự tương thích của pháp luật nội địa với các cam kết và tổ chức triển khai trên thực tế các cam kết. Trong giai đoạn 2019 - 2021, có tổng cộng 11 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Liên quan trực tiếp đến thực hiện trách nhiệm xã hội về quyền lao động có Bộ luật Lao động năm 2019 (với rất nhiều điểm mới, tiến bộ, tiệm cận tiêu chuẩn FTA) và lộ trình đến năm 2024 xây dựng, lấy ý kiến dự thảo và ban hành Luật Công đoàn sửa đổi. Tất cả văn bản quy phạm pháp luật được soạn thảo và ban hành trong thời gian ngắn hơn quy trình thông thường theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; lấy ý kiến tham vấn công khai bản dự thảo trên website của cơ quan soạn thảo; bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đúng thẩm quyền, trình tự, thể thức và cơ bản hài hòa.
Bên cạnh đó, tại Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26), Việt Nam tiếp tục khẳng định mục tiêu phát triển bền vững qua cam kết về việc ứng phó với biến đổi khí hậu (IUCN, 2022): Giảm phát thải methane toàn cầu; chấm dứt nạn phá rừng vào năm 2030; đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (netzero) vào năm 2050; loại bỏ dần nhiệt điện than vào năm 2040; giảm phát thải khí nhà kính với rất nhiều con số ấn tượng. Mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu được khẳng định trở thành sức mạnh “kép” của khung khổ pháp lý thực thi cam kết về trách nhiệm xã hội.
Để hiện thực hóa mục tiêu, Việt Nam ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Có thể kể đến: Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, bổ sung ngày 17/11/2020 (có hiệu lực 01/01/2022); Quyết định số 450/QĐ-TTg, ngày 13/4/2022, “Phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 01/10/2022, “Phê duyệt Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; Quyết định số 167/QĐ-TTg, ngày 08/02/2022, “Phê duyệt Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân kinh doanh bền vững giai đoạn 2022 - 2025”.
Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật vẫn còn những hạn chế, như so sánh với mốc theo yêu cầu của CPTPP thì còn chậm hơn, chẳng hạn, ngày 14/01/2019 là thời hạn theo quy định của CPTPP thì trung bình mỗi văn bản ban hành chậm 246 ngày; còn nhiều trường hợp văn bản khi lấy ý kiến không gửi kèm theo tài liệu giải thích nên gây khó khăn cho việc tìm hiểu và góp ý của các doanh nghiệp; vẫn tồn tại một vài quy định chưa đủ để bảo đảm thực thi các cam kết (trong đó có quy định cụ thể về tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp) cần được xây dựng Nghị định hướng dẫn kịp thời.... Bên cạnh đó, chính sách, pháp luật về môi trường dù đã được xây dựng và ban hành nhưng ở một số lĩnh vực liên quan đến môi trường, còn thiếu những quy định cụ thể, như quy định về ứng phó với biến đổi khí hậu, về an ninh môi trường, về an ninh nguồn nước... trong Luật Bảo vệ môi trường. Những hạn chế này, ảnh hưởng nhất định tới khả năng tận dụng các lợi ích từ CPTPP của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn đầu, dẫn đến khó khăn và bất cập trong công tác quản lý và thực thi các cam kết và nghĩa vụ quốc tế. Và hệ lụy tất yếu là việc thực thi, tuân thủ pháp luật về môi trường nói chung chưa thực sự hiệu quả như mong muốn, vẫn còn nhiều vi phạm pháp luật về môi trường được phát hiện.
2. Thực trạng doanh nghiệp Việt Nam thực hiện trách nhiệm xã hội
Tại Việt Nam, có 54% các doanh nghiệp cho biết, các FTA đã mang đến tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh trong thời gian qua. Đánh giá tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội theo cách tiếp cận bền vững của doanh nghiệp Việt Nam, cho thấy:
2.1. Về nhận thức của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của phát triển bền vững, thể hiện quan điểm mạnh mẽ và trách nhiệm trong các hoạt động kinh doanh bền vững: 94% doanh nghiệp Việt Nam tham gia khảo sát nhận ra được mức độ quan trọng của phát triển bền vững. Có đến 44% đã lập kế hoạch và đưa ra cam kết; 36% đang ở giai đoạn lập kế hoạch phát triển bền vững cho 2 - 4 năm tới. Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa nhận thức thấu đáo về phát triển bền vững chiếm tỷ lệ không cao (lên đến 60%).
2.2. Về các hành động và báo cáo thực thi trách nhiệm xã hội:
Còn khoảng cách lớn giữa cam kết và hành động thực thi trách nhiệm xã hội ở các doanh nghiệp Việt Nam - nhận định này dựa trên bằng chứng từ kết quả khảo sát cho thấy: Trong 80% doanh nghiệp đã có/dự định tham gia phát triển bền vững, có đến 34% không có chương trình cụ thể và chỉ có 22% doanh nghiệp có chương trình toàn diện; có đến 70% doanh nghiệp không có/hạn chế báo cáo các vấn đề phát triển bền vững ra bên ngoài và chỉ có 15% công bố báo cáo ra bên ngoài một cách toàn diện; 90% doanh nghiệp không báo cáo về mục tiêu carbon, 93% doanh nghiệp không báo cáo về rủi ro môi trường, 86% doanh nghiệp không báo cáo về rủi ro xã hội và 86% doanh nghiệp không báo cáo về rủi ro quản trị.
2.3. Về một số kết quả thực hiện trách nhiệm xã hội:
- Trách nhiệm về kinh tế:
Tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp năm 2021 đạt 1.276,8 nghìn tỷ đồng, tăng 33,8% so với năm 2020. Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi năm 2021 đạt 39,5%; hiệu suất sinh lợi trên tài sản (ROA) của toàn bộ khu vực doanh nghiệp năm 2021 đạt 2,5%, bằng 1,22 lần so với năm 2020. Trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng trưởng kinh tế đạt 6,42%, nhưng số lượng doanh nghiệp có lãi giảm 0,2% so với năm 2020. Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ năm 2021 là 50,5%; số lượng doanh nghiệp thua lỗ tăng 9% so với năm 2020. Những con số này cho thấy hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam còn chưa cao, khả năng sinh lời trên từng đồng vốn doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động sản xuất, kinh doanh thấp hơn so với lãi suất bình quân ngân hàng.
- Trách nhiệm về lao động:
Số lao động đang làm việc tại doanh nghiệp năm 2021 đạt 51,4 triệu người, tăng 195.700 người so với cùng kỳ năm trước. Theo đó, tốc độ tăng năng suất lao động so với cùng kỳ năm trước là trên 6,2%. Thu nhập bình quân/tháng của một lao động ở doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh năm 2021 đạt 10,3 triệu đồng, tăng 7,5% so với năm 2020.
Trách nhiệm về môi trường:
Báo cáo của Công ty PWC Việt Nam - một trong những nhà cung cấp lớn nhất thế giới về các dịch vụ kiểm toán, tư vấn thuế, tư vấn pháp lý, tư vấn các thương vụ và hoạt động cũng chỉ ra, phát triển bền vững chủ yếu áp dụng ở các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), doanh nghiệp đại chúng, doanh nghiệp có định hướng xuất khẩu… với chiến lược bài bản.
Ví dụ, năm 2021, đánh dấu lần đầu tiên 9 doanh nghiệp lớn là TH Group với thương hiệu TH True milk, Coca-Cola Việt Nam, Friesland Campina Việt Nam, La Vie, Nestle, Nutifood, Suntory PepsiCo Việt Nam, Tetra Pak và Universal Robina Corporation đã ngồi lại cùng nhau để thành lập Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam (gọi tắt là PRO Việt Nam) với sứ mệnh phát triển một hệ sinh thái thu gom, tái chế bao bì trong nước đủ mạnh, giúp tăng tỷ lệ tái chế và giảm thiểu tỷ lệ bao bì thải ra môi trường. Tương tự, tháng 10/2023, Công ty trách nhiệm hữu hạn La Vie (La Vie) - thành viên của Tập đoàn Nestlé - đã tổ chức lễ ký biên bản ghi nhớ chương trình hợp tác thu gom và tái chế nhựa với Duytan Recycling. Theo đó, chiến lược 5 năm La Vie và Duytan Recycling thực hiện mục tiêu thu gom và tái chế 11.000 tấn rác thải nhựa, áp dụng cho các sản phẩm chai La Vie dung tích nhỏ đến sản phẩm dung tích 19 lít.
Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng hiệu quả chưa cao hay bất cập trong đáp ứng và tuân thủ các tiêu chuẩn cao đã cam kết trong FTA thế hệ mới về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam có thể kể đến là:
(1) Doanh nghiệp thiếu thông tin, hoặc không nắm được thông tin chính xác và kịp thời về các tiêu chuẩn cao gắn với cam kết trong FTA; về các khía cạnh cụ thể của phát triển bền vững;
(2) Năng lực của đội ngũ cán bộ trong việc xử lý các vấn đề thương mại quốc tế có liên quan đến trách nhiệm xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu;
(3) Nguồn lực về tài chính trong đầu tư thỏa đáng cho các công nghệ hiện đại, các hoạt động quản lý bảo vệ môi trường hạn chế.
III. Khuyến nghị và hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy trách nhiệm xã hội trong bối cảnh thực hiện FTA thế hệ mới
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình thực thi các FTA thế hệ mới tiêu chuẩn cao. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương chính thức có 12 thành viên sau khi Vương quốc Anh nộp đơn xin gia nhập vào tháng 02/2021 và ký thỏa thuận gia nhập vào ngày 16/7/2023. Bên cạnh đó, tại COP28, Chính phủ Việt Nam đã tái khẳng định mục tiêu cam kết netzero vào năm 2050. Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ các FTA nhờ việc tiếp cận với cơ hội thương mại và đầu tư, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, nhưng cơ hội chỉ thực sự xuất hiện khi và chỉ khi Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam đồng lòng thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đã ký kết về trách nhiệm xã hội trên cơ sở hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo đảm an ninh chính trị, an ninh kinh tế và lợi ích quốc gia - dân tộc. Để thúc đẩy trách nhiệm xã hội trong bối cảnh thực hiện FTA thế hệ mới, cần có giải pháp toàn diện từ cả phía Nhà nước và doanh nghiệp.
1. Về phía Nhà nước
Một là, bảm bảo tính toàn diện trong hoạt động rà soát sự tương thích giữa pháp luật quốc gia với cam kết FTA và lập kế hoạch xây dựng pháp luật thực thi cam kết. Có nghĩa là cần rà soát ở tất cả các cấp độ, liên ngành. Không những thế cần mở rộng mục tiêu các hoạt động xây dựng pháp luật thực thi các FTA (nghĩa là không chỉ giới hạn ở việc thực hiện cam kết của hiệp định mà còn xa hơn là đáp ứng chính nhu cầu nội tại của phát triển bền vững doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam).
Hai là, chủ động soạn thảo sớm nội dung các văn bản quy phạm pháp luật (thậm chí từ khi văn kiện FTA được ký kết chính thức mà không chờ khi phê chuẩn), trong trường hợp cần thiết áp dụng trình tự thủ tục rút gọn bảo đảm đúng luật. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo, một số văn bản quy phạm pháp luật cần được ưu tiên hoàn thành là: Luật Công đoàn sửa đổi, bổ sung; Nghị định hướng dẫn Bộ luật Lao động về các điều kiện, thủ tục trình tự, quản lý Nhà nước… đối với tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp; Nghiên cứu ban hành Luật Ứng phó với biến đổi khí hậu; Hoàn thiện thể chế pháp lý về an ninh môi trường (hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đang bỏ trống); Xây dựng thể chế pháp lý về mô hình liên kết, hợp tác phát triển kinh tế tuần hoàn, tổ hợp phát triển kinh tế tuần hoàn.
Ba là, tổ chức tham vấn đầy đủ cho các đối tượng liên quan, đặc biệt là doanh nghiệp thông qua Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và các hiệp hội ngành, nghề với thông tin cung cấp không chỉ dự thảo văn bản mà còn bao gồm các tài liệu thuyết minh và giải trình. Việc này sẽ giúp nội dung các quy định nội luật hóa cam kết phù hợp với các lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam - đối tượng chịu tác động trong quá trình dự thảo và quá trình tham vấn thực chất hơn. Cần bảo đảm rằng, khung pháp lý không chỉ bao gồm các quy định về nghĩa vụ và quyền lợi mà còn bao gồm các chế tài áp dụng đối với những hành vi vi phạm quy định, gây hại tới các mục tiêu phát triển bền vững.
Bốn là, theo dõi thường xuyên quá trình thực thi cam kết: triển khai các biện pháp phổ biến tuyên truyền; thiết lập các đầu mối tư vấn hướng dẫn cụ thể; duy trì cơ chế tiếp nhận nhanh các vướng mắc từ thực tiễn để xử lý kịp thời cũng như sửa đổi, điều chỉnh quy định nếu cần thiết.
Năm là, tiến hành đánh giá sơ kết, tổng kết tác động của thực thi trách nhiệm xã hội theo cam kết FTA để rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời.
2. Về phía doanh nghiệp
Trước hết, nhanh chóng đưa trách nhiệm xã hội vào chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp, coi đó là “động lực” để vươn lên, nâng cao vị thế năng lực cạnh tranh khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tập trung chủ động tiếp cận thông tin và nâng cao nhận thức về các tiêu chuẩn cao về trách nhiệm xã hội, về phát triển bền vững gắn với cam kết trong FTA thế hệ mới một cách toàn diện hơn, coi trách nhiệm xã hội không chỉ là hoạt động từ thiện, mà là một cam kết, nghĩa vụ pháp lý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần hiểu rằng, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội không chỉ giúp bản thân doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội, của đất nước. Nhiều tiêu chí phát triển bền vững liên quan đến chuỗi cung ứng đòi hỏi các nhà quản trị, chuyên gia thương mại của doanh nghiệp cần am hiểu, tham gia sâu vào các sáng kiến ESG(21) của công ty. Vì vậy, các doanh nghiệp cần đầu tư thích đáng cho việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong việc xử lý các vấn đề thương mại quốc tế có liên quan đến trách nhiệm xã hội.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần nắm bắt cơ hội từ sự hỗ trợ nguồn lực về tài chính thông qua chính sách tài chính xanh của Nhà nước, các tổ chức trong đầu tư thỏa đáng cho các công nghệ hiện đại, các hoạt động quản lý bảo vệ môi trường./.
(Nguồn Tạp chí Cộng sản)
Tác giả bài viết: Võ Tuấn Anh
Ý kiến bạn đọc