Năng lượng tái tạo - yếu tố then chốt trong chiến lược phát triển bền vững hiện nay
Năng lượng tái tạo (bao gồm: Năng lượng gió; năng lượng mặt trời; năng lượng sinh khối; thủy điện nhỏ và vừa; công nghệ nhiệt điện và năng lượng tái tạo khác) là lĩnh vực ngày càng được khai thác phổ biến trong hệ thống năng lượng toàn cầu; có vai trò quan trọng trong định hướng phát triển bền vững ở nhiều quốc gia trên thế giới; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế gắn với tận dụng nguồn năng lượng sạch, an toàn; theo dự kiến, năng lượng tái tạo sẽ tăng trưởng 7,1% mỗi năm trong hai thập niên tới, sau đó thay thế than đá để trở thành nguồn năng lượng hàng đầu thế giới vào năm 2040. Nhận thức rõ điều đó, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách (Quyết định số 2068/TTg, ngày 25/11/2015, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050”; Quyết định số 428/TTg, ngày 18/3/2016, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030”; Nghị quyết số 55NQ/TW, ngày 11/02/2020, của Bộ Chính trị, “Về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Quyết định số 500/QĐ-TTg, ngày 15/5/2023, của Thủ tướng Chỉnh phủ, về “Phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”) nhằm khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái tạo; đồng thời, tiến tới hiện thực hóa cam kết giảm mức phát thải ròng bằng “0” (Net-zero) vào năm 2050. Thực tế, Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng, lợi thế trong đầu tư, khai thác các loại năng lượng tái tạo (đặc biệt là năng lượng mặt trời và năng lượng gió). Mặt khác, nước ta đã và đang thực hiện quá trình đẩy mạnh chuyển đổi năng lượng theo hướng giảm dần nguồn điện sử dụng nhiên liệu hoá thạch, ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng sạch, bền vững, giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính; tăng cường các hoạt động thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, như nhà máy năng lượng mặt trời, năng lượng gió, nhiệt điện,… theo tinh thần phát huy nội lực cũng như tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ từ các đối tác và thu hút nguồn vốn FDI từ các doanh nghiệp lớn.
Về định hướng phát triển ngành năng lượng tái tạo:
Vấn đề phát triển năng lượng tái tạo được đề cập ngay từ chiến lược quốc gia đầu tiên về tăng trưởng xanh, cụ thể, Quyết định số 1393/QĐ-TTg, ngày 25/9/2012, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” xác định cần giảm thiểu cường độ phát thải khí nhà kính, đồng thời, đẩy mạnh khai thác có hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo nhằm từng bước gia tăng tỷ trọng của các nguồn năng lượng sạch trong sản xuất, tiêu thụ năng lượng của quốc gia. Đến tháng 10/2021, Chính phủ đề ra các mục tiêu cụ thể, như tỷ trọng năng lượng tái tạo trên tổng cung năng lượng sơ cấp đạt 15% - 20% (năm 2030) và 25% - 30% (năm 2050) (Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”). Bên cạnh đó, Quyết định số 500/QĐ-TTg, ngày 15/5/2023, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2023, tầm nhìn đến năm 2050" (Quy hoạch Điện VIII) xác định mục tiêu tổng quát trong dài hạn là bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực hiện chuyển đổi năng lượng gắn với hiện đại hóa sản xuất, xây dựng lưới điện thông minh, quản trị hệ thống điện tiên tiến, phù hợp với xu thế chuyển đổi xanh, giảm phát thải; hình thành hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tổng thể dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới,...
Về các chính sách hỗ trợ phát triển ngành năng lượng tái tạo:
Đến nay, Nhà nước đã ban hành, thiết lập các khuôn khổ pháp lý nhằm xây dựng thị trường điện cạnh tranh và triển khai một loạt chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo (Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020, của Bộ Chính trị, “Về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg, ngày 10/9/2018, của Thủ tướng Chính phủ, về “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/ 6/ 2011 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển dự án điện gió tại Việt Nam”; Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg, ngày 11/4/2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam”; Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg, ngày 06/4/2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam” ) , cụ thể:
Một là, tăng cường miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án điện từ các nguồn năng lượng tái tạo, bao gồm thuế suất ưu đãi 10% trong 15 năm hoặc miễn thuế 4 năm (9 năm giảm 50% thuế). Các dự án năng lượng tái tạo được miễn thuế nhập khẩu đối với tài sản nhập khẩu cố định và vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được; miễn, giảm thuế sử dụng, cho thuê đất được áp dụng cho các dự án đầu tư. Tuy nhiên, việc thực hiện thuế suất ưu đãi đối với việc nhập khẩu các thiết bị năng lượng tái tạo đang gặp nhiều khó khăn, bởi hiện chưa có biểu thuế riêng phân biệt cho các thiết bị sử dụng năng lượng hiệu suất cao.
Hai là, các dự án điện từ các nguồn năng lượng tái tạo được sử dụng các nguồn chính sách vay tín dụng ưu đãi, như tăng tỷ lệ vay so với các dự án khác từ 70% (theo thông lệ) lên 80%. Mặt khác, Chính phủ cũng áp dụng cơ chế mua bán giá điện FIT (Feed-in Tariffs) (Cơ chế giá điện FIT: là một công cụ hỗ trợ cho các nhà sản xuất điện từ các nguồn năng lượng tái tạo, được khuyến khích bằng hợp đồng mua điện giá cố định dài hạn cho các nhà đầu tư sản xuất điện, cùng nghĩa vụ mua và quyền tiếp cận lưới điện được bảo đảm sẽ giúp tăng tính an toàn cho nhà đầu tư; qua đó, nâng cao tính cạnh tranh của năng lượng tái tạo so với các dạng năng lượng truyền thống ) nhằm hỗ trợ đầu tư năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió; đồng thời, ban hành nhiều chính sách ưu đãi nhằm điều chỉnh cơ chế mua bán điện đối với dự án điện mặt trời trên mái nhà, thay đổi từ cơ chế bù trừ điện năng (net-metering) thành cơ chế mua bán điện theo chiều giao và nhận riêng biệt…
Ba là, nghiên cứu, thực hiện các chính sách ưu đãi về giá, cụ thể:
(1) Năng lượng gió: Theo Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg, ngày 10/9/2018, của Thủ tướng Chính phủ, về “Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg, ngày 29/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển dự án điện gió tại Việt Nam” quy định các nhà đầu tư tư nhân có điều kiện thuận lợi hơn khi giá bán điện tăng từ 7,8UScent/kWh lên 8,5UScent/kWh đối với các dự án trên đất liền; chính thức áp dụng giá 9,8UScent/kWh đối với các dự án trên biển.
(2) Năng lượng sinh khối: Theo Quyết định số 08/2020/QĐ-TTg, ngày 05/3/2020, của Thủ tướng Chính phủ, về “Sửa đổi, bổ sung, một số điều của Quyết định số 24/2014/QĐ-TTg ngày 24/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện sinh khối tại Việt Nam” quy định bên mua điện (Tập đoàn EVN) có nghĩa vụ phải mua toàn bộ điện năng theo hợp đồng không đàm phán với giá bán điện theo 2 loại sinh khối chính: đồng phát nhiệt - điện (5,8UScent/kWh) và chi phí tránh được theo giá nhiệt điện than nhập khẩu (khoảng 7,5UScent/kWh áp dụng cho khu vực phía Nam).
(3)Năng lượng điện rác: Quyết định số 31/2014/QĐ-TTg, ngày 05/5/2014, của Thủ tướng Chính phủ, “Về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án phát điện sử dụng chất thải rắn tại Việt Nam” quy định mức ưu tiên và hỗ trợ cho điện rác thải theo hai loại hình công nghệ: chôn lấp thu hồi khí mê-tan và thiêu đốt bảo đảm vệ sinh môi trường với mức giá lần lượt là 7,28UScent/kWh và 10,05UScent/kWh.
(4)Năng lượng điện mặt trời: Theo Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg, ngày 11/4/2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam” quy định mức hỗ trợ giá khá cao (9,35UScent/kWh); đồng thời tạo điều kiện cho đầu tư và phát triển các dự án điện trên mái nhà bên cạnh điện mặt trời trên mặt đất hoặc nối lưới.
Thực trạng và tiềm năng phát triển ngành năng lượng tái tạo ở Việt Nam
Thời gian qua, ngành năng lượng tái tạo của Việt Nam thu hút được sự quan tâm đầu tư từ nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. Năm 2018, tổng đầu tư vào năng lượng tái tạo đạt mức kỷ lục 5,2 tỷ USD, gấp 9 lần so với năm 2017; các chương trình, dự án hỗ trợ quốc tế đạt tổng giá trị tài trợ khoảng 440 triệu USD; vốn vay ODA ước tính 420 triệu USD và 15,5 triệu USD là viện trợ không hoàn lại. Đầu tư năng lượng tái tạo từ vị trí thứ 10 (năm 2018) vươn lên vị trí thứ ba (năm 2019) trong xếp hạng các lĩnh vực đầu tư hấp dẫn nhất cả nước (chỉ sau lĩnh vực công nghệ tài chính (fintech) và giáo dục). Đến năm 2020, tổng vốn đầu tư FDI vào lĩnh vực sản xuất, phân phối điện đạt trên 5,1 tỷ USD, gấp hơn 4 lần so với năm 2019; có 113 dự án điện mặt trời, điện gió với tổng công suất trên 5.700MW được khai thác hết công suất.
Về điện mặt trời: Năm 2020, cả nước có 48 dự án đã được công nhận vận hành thương mại COD (Commercial Operation Date) với tổng công suất là 8.652,9MW, trở thành quốc gia có công suất điện mặt trời được lắp đặt toàn diện nhất Đông Nam Á (chiếm 2,3% tổng công suất toàn cầu và đạt công suất bình quân 60W/người). Hệ thống điện mặt trời cung cấp khoảng 10,6TWh điện (năm 2020), chiếm gần 4% tổng sản lượng điện của cả nước; xếp vị trí thứ 8 trong danh sách 10 quốc gia có năng lực lắp đặt điện mặt trời lớn nhất thế giới năm 2020.
Về điện gió: Hệ thống điện quốc gia hiện có 146 dự án điện gió đã ký hợp đồng mua bán điện (PPA) với công suất là 8.171,475MW (được công nhận vận hành thương mại COD). Năm 2021, tốc độ tăng trưởng điện gió ghi nhận kết quả đáng kể, tổng năng lực điện gió tăng từ 540MW (năm 2020) lên khoảng 4.000MW (năm 2021), góp phần đưa Việt Nam vươn lên vị trí thứ 2 trong khu vực (sau Trung Quốc) về tốc độ phát triển nguồn năng lượng tái tạo.
Từ năm 2018 đến nay, ngành năng lượng tái tạo chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong hoạt động đầu tư, kinh doanh (đặc biệt là các dự án điện gió và điện mặt trời); tỷ trọng sản lượng điện từ các nguồn năng lượng tái tạo (gồm điện mặt trời nối lưới, điện gió, năng lượng sinh khối và thủy điện) tăng lên nhanh chóng. Đến nay, tổng công suất các nhà máy điện năng lượng tái tạo và thủy điện vừa và lớn đạt 43.126MW, chiếm 55,2% tổng công suất hệ thống điện của Việt Nam (78121 MW), trong đó điện gió đạt 4.126 MW, điện mặt trời mái nhà là 7.660MW, điện mặt trời trang trại 8.904MW, thủy điện là 22.111MW, năng lượng sinh khối là 325MW. Tuy vậy, năng lượng tái tạo hiện vẫn còn chiếm tỷ trọng tương đối thấp, khoảng 9% trong tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp của cả nước (năm 2020) và nguồn cung năng lượng sơ cấp vẫn phụ thuộc chủ yếu từ than (chiếm tỷ trọng 51% trong cùng năm).
Về triển vọng phát triển năng lượng tái tạo hiện nay
Thứ nhất, điều kiện địa lý tự nhiên ở Việt Nam rất lý tưởng cho sự phát triển của ngành năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió. Việt Nam có số giờ nắng cao, trung bình từ 1.500 giờ - 1.700 giờ mỗi năm với cường độ bức xạ mặt trời không thay đổi đáng kể; năng lượng mặt trời trên mái nhà dự báo sẽ chiếm khoảng 50% tổng công suất nặng lượng mặt trời của Việt Nam (năm 2030); nguồn tài nguyên gió lớn nhất trong khu vực với tiềm năng 311GW và trên 39% tổng diện tích có tốc độ gió lớn hơn 6m/giây (tương đương công suất 512GW). Bên cạnh đó, với mạng lưới gồm khoảng 3 nghìn sông, ngòi lớn, nhỏ, nước ta là một trong số 14 quốc gia trên thế giới đứng đầu về tiềm năng thủy điện; sở hữu khoảng 8,6% diện tích đất, nước thích hợp cho phát triển các trang trại điện gió; có trên 120.000 trạm thủy điện với tổng công suất ước tính đạt 300MW. Thêm vào đó, Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong tận dụng nguồn năng lượng sinh khối từ nhiều nguồn khác nhau, như gỗ củi, phế thải từ nông nghiệp, rác thải đô thị,...; là yếu tố quan trọng góp phần giải quyết bài toán bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; giảm thiểu ô nhiễm môi trường; cải thiện chi phí, tăng hiệu quả sản xuất - kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc các ngành năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, biển; nghiên cứu, đào tạo, sáng chế,… Ngoài ra, nước ta còn có tiềm năng năng lượng địa nhiệt, năng lượng biển (thủy triều),...
Thứ hai, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), Việt Nam là quốc gia sử dụng điện nhiều thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Trong vòng 10 năm tới, tốc độ tăng trưởng năng lượng tái tạo đạt khoảng 20%, mở ra cơ hội lớn cho các tập đoàn nước thực hiện đầu tư, kinh doanh. Năm 2021, Việt Nam xếp hạng thứ 31 trong danh sách các quốc gia có độ thu hút cao về các cơ hội đầu tư và triển khai trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Tính riêng đối với chuyển dịch 2 ngành điện gió và điện mặt trời, tiềm năng đóng góp vào GDP cả nước lên tới 70 - 80 tỷ USD, tạo ra khoảng 105 nghìn việc làm trực tiếp.
Thứ ba, Đảng và Nhà nước hiện đang tích cực, mở rộng tham gia các khuôn khổ hợp tác quốc tế về chống biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính. Nhiều chính sách hỗ trợ và các giải pháp được triển khai nhằm thu hút đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo quốc gia. Các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể triển khai thực hiện nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, bảo đảm thực hiện thành công Chiến lược tăng trưởng xanh cũng như hiện thực hóa mục tiêu đạt tỷ lệ 67,5% - 71,5% năng lượng tái tạo đến năm 2050 được đề ra trong Quy hoạch Điện VIII.
Thứ tư, phát triển năng lượng tái tạo đang dần trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển ngành năng lượng toàn cầu và chiếm vị trí quan trọng trong phát triển bền vững ở các nền kinh tế trên thế giới; do đó, năng lượng tái tạo sẽ trở thành nguồn sản xuất điện chính và ước tính, cung cấp khoảng một phần ba lượng điện trên thế giới. Việt Nam được đánh giá có nhiều tiềm năng để thu hút đầu tư phát triển ngành năng lượng tái tạo trong tương lai, đồng thời, vị thế địa - kinh tế trong chuỗi cung ứng toàn cầu mở ra nhiều điều kiện, cơ hội thuận lợi trong tăng trưởng xanh để có thể chuyển mình, bắt kịp, tiến cùng, vượt lên, đi tắt đón đầu và tạo đà cho một bước nhảy vọt về phát triển kinh tế - xã hội và môi trường.
Một số gợi ý giải pháp, nhiệm vụ thời gian tới
Thứ nhất, hệ thống chính sách phát triển năng lượng tái tạo cần được nghiên cứu, xây dựng rõ ràng, nhất quán giữa các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch triển khai. Trong đó, cần sớm xây dựng và ban hành Luật Năng lượng tái tạo để tạo bởi nước ta mới chỉ có Luật Điện lực, Luật Sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng nhưng chưa đề cập nhiều đến lĩnh vực năng lượng tái tạo. Việc ban hành Luật Năng lượng tái tạo sẽ là hành lang cơ sở pháp lý quan trọng cho triển khai các hoạt động đầu tư phát triển; mặt khác, cần phải sớm hoàn thiện cơ chế để đẩy mạnh thực hiện ưu đãi thuế đối với các thiết bị năng lượng tái tạo và thiết bị hiệu suất cao.
Thứ hai, tập trung nghiên cứu, triển khai các chính sách thúc đẩy hoạt động cải tiến và phát triển khoa học - công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng năng lượng tái tạo. Trong đó, ưu tiên đổi mới, cải tiến các chính sách từ Chính phủ, tạo động lực phát triển nhằm thu hút các dự án công nghệ mới. Đồng thời, hình thành các cơ chế các-bon xanh, tài chính xanh để khuyến khích đầu tư cải tiến công nghệ cho phát triển năng lượng tái tạo; xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm dưới sự phối hợp nghiên cứu giữa các viện nghiên cứu, các trường đại học trong lĩnh vực năng lượng nói chung và năng lượng tái tạo nói riêng.
Thứ ba, tập trung triển khai các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển năng lượng tái tạo. Đối với nguồn vốn trong nước, cần nghiên cứu, ban hành nhiều chính sách ưu đãi và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong nước trực tiếp tham gia sản xuất, lắp ráp, sửa chữa các loại thiết bị sử dụng năng lượng tái tạo. Để thu hút nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư có uy tín và kinh nghiệm trên thế giới, cần xây dựng hành làng pháp lý theo chuẩn quốc tế, tạo lập thị trường điện cạnh tranh hơn, mở rộng lưới điện có kiểm soát đối với nguồn năng lượng tái tạo và các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực năng lượng tái tạo; tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, giữa các doanh nghiệp trong ngành và liên ngành.
Thứ tư, khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng phát triển và mở rộng các mô hình sử dụng năng lượng tái tạo, như đô thị xanh, nông thôn xanh, tòa nhà xanh. Nghiên cứu, xây dựng Quỹ phát triển năng lượng tái tạo; nguồn vốn của Quỹ có thể huy động một phần từ nguồn vốn ngân sách, từ chi phí môi trường với năng lượng hóa thạch, từ các nguồn tài trợ trong và ngoài nước nhằm hỗ trợ tài chính cho khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội vào phát triển thị trường năng lượng tái tạo; nâng cao nhận thức về vai trò quan trọng của việc phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo trong phát triển kinh tế - xã hội, hướng đến mục tiêu phát triển nhanh và bền vững; đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao trách nhiệm cho người dân trong thực hiện sử dụng nguồn năng lượng sạch gắn với tiết kiệm năng lượng. Đồng thời, thúc đẩy quá trình xanh hóa trong sản xuất kinh, kinh doanh bằng việc khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng năng lượng tái tạo thông qua mô hình xây dựng - cho thuê - chuyển giao BLT (Build - Lease - Transfer) đã được triển khai ở một số quốc gia nhằm giúp các doanh nghiệp sử dụng điện sạch với chi phí thấp.
(nguồn theo https://www.tapchicongsan.org.vn)
Tác giả bài viết: Võ Tuấn Anh
Ý kiến bạn đọc