Hội nghị nhằm đánh giá kết quả thực hiện Nghị định số 68/2017/NĐ-CP về quản lý, phát triển cụm công nghiệp (Nghị định 68); ngày 11/6/2020, Nghị định số 66/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2017/NĐ-CP (Nghị đinh 66).
Hội nghị có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân, lãnh đạo và đại diện các Cục, Vụ thuộc Bộ. Cùng lãnh đạo UBND Thành phố Hà Nội, lãnh đạo UBND tỉnh Hoà Bình, đại diện Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường và đại biểu của 24 địa phương trong khu vực phía Bắc.
Tại Hội nghị về cơ chế, chính sách quản lý phát triển cụm công nghiệp (CCN) đại diện nhiều Bộ, ngành, địa phương đã thẳng thắn chỉ ra những vướng mắc và đề xuất giải pháp gỡ vướng nhằm hoàn thiện khung pháp lý về cụm công nghiệp.
Báo cáo tại Hội nghị, ông Nguyễn Văn Thịnh - Phó Cục trưởng Cục Công Thương địa phương, đơn vị chủ trì thực hiện công tác quản lý, phát triển cụm công nghiệp của Bộ Công Thương cho biết, đến nay, có 42 địa phương đã ban hành, thực hiện chính sách hỗ trợ CCN; trong đó có 13 địa phương ban hành Chương trình/Nghị quyết hỗ trợ riêng đối với CCN giai đoạn đến năm 2025 (gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hòa Bình, Hà Nam, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Quảng Trị, Quảng Nam, Đắk Lắk, Đồng Nai, Bình Phước, Đồng Tháp và Bến Tre), các địa phương còn lại chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển CCN được lồng ghép trong các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp, khuyến công; các địa phương chưa ban hành chính sách phát triển CCN do hạn chế, khó khăn về nguồn thu ngân sách trên địa bàn.
Ông Nguyễn Văn Thịnh- Phó Cục trưởng Cục Công Thương địa phương
Chính sách hỗ trợ CCN của các địa phương chủ yếu tập trung vào các nội dung, hạng mục hạ tầng thiết yếu của CCN để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất công nghiệp như: Quy hoạch chi tiết xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng, giao thông, xử lý nước thải tập trung, cấp điện, cấp thoát nước, di dời vào CCN.
Tuy nhiên, do nguồn ngân sách địa phương còn hạn chế nên việc thực hiện hỗ trợ chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Về quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch; xử lý CCN hình thành trước Quy chế quản lý CCN, các địa phương đã ban hành và tổ chức thực hiện Quy hoạch, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển CCN theo quy định pháp luật, phù hợp nhu cầu thực tế, hiệu quả đầu tư hạ tầng, thu hút các dự án công nghiệp.
Sau khi Nghị định số 68/2017/NĐCP ban hành và có hiệu lực đến nay, có 9 địa phương đã ban hành Quy hoạch phát triển CCN trên địa bàn (gồm: Thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Thanh Hóa, Quảng Nam, Bình Định, Bình Phước, Vĩnh Long, Kiên Giang).
Thực hiện Luật Quy hoạch, đến nay, đã có 47 tỉnh, thành phố đề nghị Bộ Công Thương có ý kiến về quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021-2030 (trong đó có phương án phát triển CCN trên địa bàn).
Về thành lập, mở rộng, đầu tư xây dựng và thu hút đầu tư vào CCN nhìn chung được các địa phương thực hiện theo trình tự, thủ tục, quy định tại Nghị định số 68/2017/NĐ-CP, Nghị định số 66/2020/NĐ-CP và pháp luật liên quan.
Trong thời gian qua, nhiều địa phương đã khẩn trương triển khai đầu tư CCN (Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Phú Thọ, Hòa Bình, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Ninh Bình, Thanh Hóa, Quảng Nam, Bình Thuận, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Tháp,...) để có điều kiện hạ tầng thuận lợi cho các DN đầu tư sản xuất, khôi phục kinh tế thời kỳ hậu COVID-19, đón làn sóng đầu tư sản xuất mới từ các nước trên thế giới và khu vực đang hướng vào Việt Nam.
Trong quá trình đầu tư CCN, nhiều địa phương (như: Bắc Giang, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Định, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương,…) đã thực hiện tốt quy định “dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN phù hợp với nội dung Báo cáo đầu tư thành lập, mở rộng CCN, quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt thì không phải thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư” tại Nghị định số 68/2017/NĐ-CP, đây là sự cải cách mạnh mẽ, đơn giản hóa thủ tục đầu tư đối với CCN được các DN chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN đánh giá cao.
Một số địa phương thực hiện tốt nguyên tắc Sở Công Thương là cơ quan đầu mối quản lý nhà nước về CCN trên địa bàn, trong đó Sở Công Thương được giao chủ trì thẩm định, trình UBND cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư các dự án thứ cấp vào CCN (như: Thái Nguyên, Hòa Bình, Ninh Thuận, Quảng Bình, Bà Rịa-Vũng Tàu,…).
Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2021, Luật đầu tư 2020 quy định đối với dự án đầu tư có đề nghị Nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu hoặc nhận chuyển nhượng, dự án đầu tư có đề nghị cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư là UBND cấp tỉnh, vì vậy, hiện nay các địa phương gặp vướng mắc 9 trong triển khai quy định dự án đầu tư xây dựng hạ tầng CCN không phải thực hiện thủ tục quyết định chủ trương đầu tư tại Nghị định số 68/2017/NĐ-CP.
Cũng tại Hội nghị ông Nguyễn Văn Thịnh, một số đại các Sở Công Thương đã nêu vấn đề về xử lý các CCN hình thành trước Quy chế quản lý CCN (Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg).
Hiện nay, tại các địa phương trên cả nước đang tồn tại 3 mô hình chủ đầu tư hạ tầng kỹ thuật CCN: (1) DN làm chủ đầu tư; (2) Đơn vị sự nghiệp công lập làm chủ đầu tư (đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp huyện như Ban quản lý CCN, Trung tâm phát triển CCN, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng; đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Công Thương như Trung tâm Khuyến công; đơn vị sự nghiệp khác thuộc UBND cấp tỉnh như Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng cấp tỉnh, Ban quản lý các KCN); (3) UBND cấp huyện/cấp xã làm chủ đầu tư (chủ yếu là các CCN hình thành trước Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg).
Trong đó, cả nước có 508 CCN đã thành lập do DN làm chủ đầu tư; 481 CCN đã thành lập do đơn vị sự nghiệp công lập làm chủ đầu tư và 30 CCN đã thành lập do UBND cấp huyện/cấp xã làm chủ đầu tư.
Qua theo dõi thực hiện ở các địa phương, các mô hình nêu trên có những ưu điểm và hạn chế riêng, cụ thể như sau:
Mô hình DN làm chủ đầu tư: Đây là mô hình phát huy hiệu quả cao nhất, phù hợp với chủ trương kêu gọi xã hội hóa đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế thị trường và giảm được gánh nặng ngân sách nhà nước; chủ đầu tư chủ động triển khai nhanh việc đầu tư xây dựng, hoàn thành, duy tu bảo dưỡng các công trình hạ tầng CCN, chủ động, nhanh chóng thu hút đầu tư vào CCN; thủ tục tiếp nhận, cho thuê đất đối với nhà đầu tư thứ cấp thuận lợi,... Tuy nhiên, giá cho thuê mặt bằng các CCN này thường cao; chỉ thu hút được các 10 DN đầu tư hạ tầng các CCN có vị trí quy hoạch thuận lợi về giao thông, kết nối hạ tầng kỹ thuật bên ngoài, gần nguồn lao động.
Đối với các mô hình chủ đầu tư hạ tầng CCN còn lại (đơn vị sự nghiệp công lập, UBND cấp huyện/cấp xã): Thuận lợi trong công tác chỉ đạo điều hành của cơ quan quản lý nhà nước, thường phù hợp ở những địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn khó thu hút DN làm chủ đầu tư, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN vì mục tiêu phát triển kinh tế địa phương nên giá cho thuê đối với các DN thứ cấp thấp nên phù hợp thu hút các DN thứ cấp có tiềm lực tài chính hạn chế đầu tư SXKD vào CCN.
Đại diện cho đơn vị chủ trì thực hiện công tác quản lý, phát triển CCN của Bộ Công Thương, ông Nguyễn Văn Thịnh - Phó Cục trưởng Cục Công Thương địa phương thẳng thắn nhìn nhận: Việc thực hiện công tác quản lý là phát triển CCN hiện gặp nhiều vướng mắc.
Trong đó, việc phối hợp giữa các Bộ, ngành trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực: Đất đai, đầu tư, đầu tư công, xây dựng liên quan đến cụm công nghiệp còn thiếu đồng bộ, kịp thời… dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong áp dụng, triển khai thực hiện quản lý, phát triển CCN tại các địa phương.
Một số địa phương không lập quy hoạch phát triển CCN giai đoạn vừa qua nên gặp khó khăn trong đầu tư phát triển CCN. Về lập, trình phê duyệt Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030 (trong đó có phương án phát triển CCN) tại nhiều địa phương còn chậm, vì vậy phải thực hiện thủ tục điều chỉnh, bổ sung nhiều lần để đáp ứng nhu cầu mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp.
Nhiều CCN chưa được đầu tư hạ tầng hoàn chỉnh, đặc biệt hạ tầng xử lý môi trường, khó thu hút doanh nghiệp làm chủ đầu tư, hiệu quả đầu tư không cao.
Các cơ quan Trung ương và nhiều địa phương chưa xây dựng được cơ chế, chính sách đủ mạnh để hoàn thiện đầu tư hạ tầng, thu hút các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh hạ tầng CCN và các doanh nghiệp thứ cấp vào cụm. Nguyên nhân chủ yếu là do ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương còn hạn chế, chưa ưu tiên bố trí cho nội dung hỗ trợ đầu tư hạ tầng CCN.
Từ thực tế địa phương, tại Hội nghị, ông Quách Tất Liêm- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoà Bình, phản ánh: Nghị định 68 quy định về tỷ lệ lấp đầy CCN đạt trên 50% mới được triển khai CCN khác trên cùng địa bàn. Trong khi đó, thời gian thực hiện các thủ tục dài, gây lãng phí cho doanh nghiệp nên chăng cho phép nhà đầu tư làm cuốn chiếu.
Những quy định về chuyển đổi đất rừng, đất lúa từ 10ha trở lên phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ; đầu tư hạ tầng ngoài hàng rào CCN hay khu thiết chế để làm nhà ở cho công nhân cũng cần được “nới” hơn để thuận lợi cho nhà đầu tư. “Trong văn bản, chính sách mới cũng cần quy định rõ chức năng của UBND huyện và phòng ban liên quan để cấp chính quyền này có trách nhiệm trong quản lý, thu hút đầu tư CCN”, ông Quách Tất Liêm nói.
Ông Phạm Bá Oai- Giám đốc Sở Công Thương Thanh Hoá cũng, chỉ ra: Nghị định 68 và Nghị định 66 đã tạo hành lang pháp lý tốt cho hình thành, quản lý CCN. Tuy nhiên, lãnh đạo Sở Công Thương Thanh Hoá cũng cho rằng: Trong quy hoạch cụm công nghiệp, các tỉnh đề xuất những điều chỉnh nhỏ thì phân cấp cho địa phương nhưng phải nêu rõ nội dung nào phải báo cáo Bộ, nội dung nào chỉ báo cáo tỉnh để tránh vượt thẩm quyền.
Ông Phạm Bá Oai- Giám đốc Sở Công Thương Thanh Hoá phát biểu tại Hội nghị
Mặt khác, quy định chỉ được thu hút đầu tư thứ cấp sau khi đã hoàn thành đầu tư hạ tầng sẽ mất nhiều thời gian của doanh nghiệp. Nên chăng cho phép cùng với đầu tư hạ tầng, có thể kêu gọi đầu tư thứ cấp và dự án thứ cấp chỉ được đi vào hoạt động khi hoàn thành hạ tầng. Bên cạnh đó, cần có mẫu thống nhất về quy chế quản lý riêng trong CCNđể không trở thành rào cản.
Trước ý kiến của các địa phương, phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân một lần nữa khẳng định Nghị định 68, Nghị định 66 đã góp phần thúc đẩy phát triểnCCN, giúp công tác quản lý bài bản và hiệu quả hơn. Từ đó, tạo động lực cho phát triển ngành công nghiệp nói chung và tiểu thủ công nghiệp nói riêng.
Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân phát biểu
Tuy nhiên trong quá trình thực thi, có 1 số nội dung phát sinh từ sự chồng chéo giữa các băn bản quy phạm pháp luật, thực tiễn và những tồn tại từ lịch sử, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung 2 nghị định trên.
“Bộ Công Thương đề cao các ý kiến đóng góp của địa phương xuyên suốt theo các nội dung từ công tác quy hoạch, triển khai, tác động liên quan và đề xuất các giải pháp. Bộ Công Thương sẽ tiếp thu, ghi nhận để áp dụng trong quá trình sửa đổi, xây dựng cơ chế chính sách mới cho CCN”, Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân nhấn mạnh.
Thứ trưởng cũng đồng thời phác ra những nét cơ bản trong định hướng sửa đổi Nghị định 66 và Nghị định 68. Cụ thể, về công tác quy hoạch sẽ cố gắng tích hợp đồng bộ và đơn giản hoá tối đa thủ tục hành chính.
Nội dung liên quan đến thành lập cụm công nghiệp sẽ kế thừa tinh thần Nghị định 66, Nghị định 68 để đồng bộ quy trình thành lập. Đồng thời hỗ trợ tối đa và cao nhất cho nhà đầu tư hạ tầng kỹ thuật, nhà đầu tư thứ cấp.
Coi trọng yếu tố lựa chọn để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, cùng đó tận dụng ưu thế địa phương, sử dụng hiệu quả cao nhất tài nguyên đất, trong đó ưu tiên thu hút các ngành nghề có hàm lượng công nghệ cao. Đây là hướng mới trong nội dung dự thảo nghị định thay thế Nghị định 66 và Nghị định 68.
“Liên quan đến phân cấp, phân quyền chỉ định 1 đầu mối quản lý chung. Chúng tôi tiếp thu theo hướng Bộ tập trung ban hành hành lang pháp lý chung còn lại tôn trọng quyền tự quyết của địa phương nhất là tính đặc thù”, Thứ trưởng Bộ Công Thương nhấn mạnh, đồng thời cho biết: Về cơ bản, hành lang pháp ý liên quan đến phát triển cụm công nghiệp đã có nhưng đang rải rác ở một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Nghị định thay thế Nghị định 66 và Nghị đinh 68 sẽ cố gắng tích hợp toàn bộ nội dung phát triển cụm công nghiệp vào một văn bản, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho nhà quản lý địa phương và trong thực thi của doanh nghiệp.
(https://tapchicongthuong.vn)
Tác giả bài viết: Võ Mai Hưng
Ý kiến bạn đọc